7 cải cách lớn về kiểm tra chuyên ngành trong nhập khẩu về Việt Nam

kiểm tra chuyên ngành trong nhập khẩu về Việt Nam

Theo mô hình Đề án mới, nhiều thủ tục kiểm tra theo Mô hình mới đã được đơn giản hóa nhờ sử dụng nguồn thông tin, và cơ sở dữ liệu của người nhập khẩu được tập trung vào một đầu mối đến từ cơ quan hải quan. Theo đó, khi hàng hóa có đủ điều kiện sẽ được áp dụng chế độ miễn KTCL hoặc tiến hành kiểm tra giảm thì hệ thống điện tử của hải quan sẽ tự động cập nhật, người nhập khẩu sẽ không phải làm thủ tục xin miễn giảm như quy định hiện hành; giảm nhiều các loại giấy tờ trùng lặp giữa hồ sơ hải quan và hồ sơ KTCL. Đề án này gồm 7 nội dung cải cách lớn như sau:

kiểm tra chuyên ngành trong nhập khẩu về Việt Nam

Thứ nhất, giao cho cơ quan hải quan là đầu mối trong KTCL, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với các hàng hóa nhập khẩu

Theo đó, cơ quan hải quan sẽ trở thành đầu mối tiếp nhận hồ sơ kiểm tra về chất lượng (KTCL), kiểm tra an toàn thực phẩm (ATTP) đối với các hàng hóa nhập khẩu; Thực hiện kiểm tra bộ hồ sơ, thực hiện kiểm tra bằng các loại máy móc thiết bị tại hiện trường hoặc tiến hành trưng cầu, giám định, thử nghiệm tại các tổ chức đánh giá sự phù hợp và giám định được Bộ quản lý ngành, hoặc lĩnh vực chỉ định; Thông báo các kết quả kiểm tra nhà nước về chất lượng, về ATTP để tiến hành thông quan; Chủ trì và phối hợp với các Bộ quản lý ngành, các lĩnh vực xây dựng cơ sở dữ liệu, giúp hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin và tiến hành áp dụng quản lý rủi ro “tích hợp” trong KTCL, kiểm tra ATTP, và công khai, kết nối, chia sẻ thông tin với các cơ quan ban ngành liên quan.

Khi thực hiện việc tiếp nhận, kiểm tra bộ hồ sơ đối với hàng hóa nhập khẩu thuộc diện KTCL, kiểm tra ATTP, theo đó cơ quan hải quan sẽ tổng hợp các nguồn thông tin, cơ sở dữ liệu về các loại hàng hóa, người nhập khẩu hàng hóa sẽ thuộc diện KTCL, kiểm tra ATTP, từ đó sẽ tiến hành xây dựng nguồn cơ sở dữ liệu và hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin để có thể đảm bảo việc triển khai các nội dung theo Mô hình mới.

Đồng thời, cơ quan hải quan sẽ phải thực hiện công bố trên Cổng thông tin một cửa quốc gia về danh mục các mặt hàng được phép áp dụng phương thức kiểm tra thông thường, và kiểm tra giảm để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc làm các thủ tục nhập khẩu hàng hóa, các cơ quan trong việc phối hợp, và triển khai nhiệm vụ liên quan.

Thứ hai là, việc áp dụng đồng bộ 3 phương thức kiểm tra cho cả lĩnh vực KTCL và ATTP

Phương pháp này được thực hiện nhằm cắt giảm số lô hàng nhập khẩu phải kiểm tra bao gồm: Kiểm tra chặt (là việc kiểm tra bộ hồ sơ kết hợp lấy mẫu chứng nhận, giám định, và kiểm nghiệm); kiểm tra thông thường ( đây là việc kiểm tra hồ sơ đăng ký KTCL, và kiểm tra ATTP); kiểm tra giảm (là việc kiểm tra bộ hồ sơ ngẫu nhiên không quá 5% trên tổng số các lô hàng thuộc diện phải kiểm tra giảm của năm liền kề trước đó).

Hàng hóa đã có 3 lần liên tiếp đạt các yêu cầu nhập khẩu theo phương thức kiểm tra chặt sẽ phải chuyển sang phương thức kiểm tra thông thường; hàng hóa có 3 lần liên tiếp đạt được yêu cầu nhập khẩu theo phương thức kiểm tra thông thường sẽ phải chuyển sang phương thức kiểm tra giảm.

Việc áp dụng đồng bộ cả 3 phương thức kiểm tra chặt, kiểm tra thông thường và kiểm tra giảm đối với cả lĩnh vực chất lượng, và ATTP là một trong trong những nội dung cải cách mà chương trình Đề án hướng tới, từ đó sẽ làm giảm đáng kể số lô hàng nhập khẩu phải KTCL, và kiểm tra ATTP.

Thứ Ba là, đơn giản hóa thủ tục KTCL, và kiểm tra ATTP đối với hàng hóa nhập khẩu

Theo Mô hình mới đưa ra, thủ tục về KTCL đã được đơn giản hóa, và cắt giảm các bước thủ tục so với quy trình hiện tại, cụ thể như:

Đối với các loại hàng hóa đã có chứng nhận hợp quy, và việc cơ quan hải quan giữ vai trò đầu mối trong việc thực hiện KTCL đã cắt giảm được 2 bước thủ tục trên tổng số 6 bước so với các quy trình hiện tại (Bộ quản lý ngành, và lĩnh vực thực hiện KTCL).

Đối với hàng hóa chưa có giấy chứng nhận hợp quy, việc cơ quan hải quan sẽ giữ vai trò đầu mối thực hiện KTCL cắt giảm được 3 bước thủ tục trên tổng số 10 bước so với các quy trình hiện tại (Bộ quản lý ngành, và lĩnh vực kiểm tra kết quả giám định của Tổ chức giám định được phép chỉ định và cấp Thông báo kết quả KTCL đạt yêu cầu nhập khẩu để các cơ quan hải quan thông quan).

Bước Quy trình hiện tại(Bộ quản lý ngành, và lĩnh vực thực hiện KTCL) Quy trình Mô hình mới(Hải quan sẽ thực hiện KTCL)
1. Bộ quản lý ngành, và lĩnh vực: Tiến hành tiếp nhận hồ sơ đăng ký KTCL Hải quan: Sẽ tiếp nhận hồ sơ đăng ký tờ khai hải quan, có kèm hồ sơ đăng ký KTCL
2. Bộ quản lý ngành, và lĩnh vực:  Tiến hành xử lý hồ sơ đăng ký KTCL Hải quan:  Cơ quan hải quan sẽ xử lý hồ sơ đăng ký KTCL (đồng thời kết hợp xử lý hồ sơ hải quan)
3. Doanh nghiệp: Sẽ đề nghị tổ chức chứng nhận hoặc giám định được chỉ định thực hiện việc chứng nhận hợp quy hoặc giám định hàng hóa tại cửa khẩu Hải quan: Sẽ gửi yêu cầu Tổ chức chứng nhận hoặc giám định được chỉ định thực hiện các chứng nhận hợp quy/giám định
4. Tổ chức chứng nhận và giám định: sẽ thực hiện chứng nhận hợp quy/giám định Tổ chức chứng nhận và giám định: sẽ thực hiện chứng nhận hợp quy/giám định
5. Tổ chức chứng nhận hoặc giám định: sẽ thông báo kết quả chứng nhận hợp quy hoặc giám định cho doanh nghiệp Tổ chức giám định được chỉ định: sẽ thông báo kết quả chứng nhận hợp quy hoặc giám định cho cơ quan hải quan
6. Doanh nghiệp: Phải nộp kết quả chứng nhận hợp quy hoặc giám định do tổ chức chứng nhận và giám định thực hiện cho Bộ, ngành để tiến hành kiểm tra(*)Trường hợp Bộ, và ngành trực tiếp thử nghiệm có thể bỏ qua bước này Bước được cắt giảm
7. Bộ quản lý ngành, và lĩnh vực: sẽ kiểm tra lại kết quả chứng nhận hoặc giám định do tổ chức chứng nhận hoặc giám định thực hiện hoặc trực tiếp thử nghiệm mẫu khi cần thiết Hải quan: Cơ quan hải quan phải kiểm tra hồ sơ KTCL và kết quả chứng nhận hoặc giám định (kết hợp kiểm tra hồ sơ hải quan). Trường hợp cần thiết, cơ quan hải quan sẽ phải trực tiếp lấy mẫu để thử nghiệm
8. Bộ quản lý ngành và lĩnh vực: sẽ thông báo kết quả KTCL cho người nhập khẩu Bước được cắt giảm
9. Doanh nghiệp: phải nộp kết quả KTCL cho cơ quan hải quan để tiến hành làm thủ tục nhập khẩu Bước được cắt giảm
10. Hải quan: Tiến hành thông quan Hải quan: sẽ thông báo kết quả KTCL và tiến hành thông quan(Gộp bước 8 và 10)

Việc KTCL sẽ được thực hiện tại một đầu mối là cơ quan hải quan, thông qua Cổng thông tin một cửa quốc gia, từ đó doanh nghiệp có thể biết được kết quả kiểm tra hoặc hiểu được lý do chưa có kết quả cũng như tình trạng tờ khai đã hay chưa được thông quan, theo đó giản tiện việc phải theo dõi, và liên hệ với cơ quan thứ ba là cơ quan KTCN. Việc này cũng đồng thời giúp giảm tải cho cơ quan hải quan trong việc  theo dõi, đôn đốc các doanh nghiệp và phối hợp trao đổi thông tin với cơ quan KTCN.

Thủ tục về việc kiểm tra ATTP theo Mô hình mới cũng sẽ được đơn giản hóa, và cắt giảm các bước thủ tục so với các quy trình hiện tại, cụ thể như sau:

Đối với các loại hàng hóa thuộc diện kiểm tra thông thường: Việc cơ quan hải quan phải giữ vai trò đầu mối thực hiện kiểm tra ATTP sẽ cắt giảm được 2 bước thủ tục trên tổng số 5 bước so với quy trình hiện tại đang sử dụng (cơ quan được Bộ quản lý ngành, hoặc lĩnh vực giao/chỉ định thực hiện việc kiểm tra ATTP).

Bước Quy trình hiện tại(Cơ quan được Bộ giao hoặc chỉ định thực hiện kiểm tra ATTP) Quy trình Mô hình mới(Hải quan sẽ thực hiện kiểm tra ATTP)
1. Cơ quan được Bộ giao hoặc chỉ định: sẽ tiếp nhận hồ sơ đăng ký kiểm tra ATTP Hải quan: sẽ tiếp nhận hồ sơ đăng ký tờ khai hải quan, có kèm hồ sơ đăng ký kiểm tra ATTP
2. Cơ quan được Bộ giao hoặc chỉ định: phải kiểm tra hồ sơ đăng ký kiểm tra ATTP Hải quan:  sẽ kiểm tra hồ sơ đăng ký kiểm tra ATTP (cùng với kết hợp kiểm tra hồ sơ hải quan)
3. Cơ quan được Bộ giao hoặc chỉ định: sẽ thông báo kết quả kiểm tra ATTP cho người nhập khẩu Bước được cắt giảm
4. Doanh nghiệp: sẽ phải nộp kết quả kiểm tra ATTP cho các cơ quan hải quan để làm thủ tục nhập khẩu Bước được cắt giảm
5. Hải quan: Tiến hành thông quan Hải quan: thông báo kết quả kiểm tra ATTP và tiến hành thông quan(Gộp bước 3 và 5)

Đối với các loại hàng hóa thuộc diện kiểm tra chặt, mặc dù việc cơ quan hải quan phải giữ vai trò đầu mối trong việc thực hiện kiểm tra ATTP không cắt giảm được số các bước thủ tục so với quy trình đang dùng hiện tại, xong sẽ đạt được các mục tiêu như: trình tự thủ tục kiểm tra ATTP sẽ được thực hiện đúng theo quy định tại Luật Chất lượng sản phẩm, và hàng hóa; thủ tục kiểm tra ATTP sẽ được đơn giản hóa do các nguồn thông tin, và cơ sở dữ liệu về mức độ tuân thủ pháp luật của người nhập khẩu sẽ được tập trung vào một đầu mối là phía cơ quan hải quan; giúp cho doanh nghiệp được chủ động, lựa chọn quy trình kiểm tra ATTP phù hợp với các điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp.

Thủ tục KTCL, và kiểm tra ATTP theo Mô hình mới được đơn giản hơn nhiều so với sử dụng Mô hình hiện tại. Doanh nghiệp sẽ giao dịch một đầu mối là cơ quan hải quan để có thể thực hiện đồng thời thủ tục hải quan và thủ tục KTCL, kiểm tra ATTP. Ứng dụng tối đa của hệ thống công nghệ thông tin trong việc đăng ký kiểm tra, thực hiện kiểm tra, và chuyển đổi phương thức kiểm tra.

Tham khảo thêm:

Dịch vụ hải quan hải phòng

Nghiệp vụ hải quan

Hồ sơ hải quan xuất nhập khẩu

Thủ tục nhập khẩu máy in

Thủ tục hải quan điện tử

Thủ tục nhập khẩu hoá chất

Tra cứu nộp thuế

Thứ 4 là, tiến hành áp dụng kiểm tra theo mặt hàng để có thể cắt giảm số lượng các lô hàng phải kiểm tra

Một trong những nội dung cải cách của Đề án mới là áp dụng chuyển đổi phương thức KTCL,và  kiểm tra ATTP từ kiểm tra chặt sang hình thức kiểm tra thông thường, từ hình thức kiểm tra thông thường sang kiểm tra giảm theo các mặt hàng để có thể giảm tối đa lô hàng cần phải kiểm tra. Việc áp dụng chuyển đổi phương thức KTCL, và kiểm tra ATTP áp dụng đối với các hàng hóa giống hệt, không có phân biệt nhà nhập khẩu.

Hệ thống sẽ tự động xác định xem hàng hóa được chuyển đổi phương thức kiểm tra trên cơ sở của hồ sơ đăng ký kiểm tra của doanh nghiệp; thông tin, dữ liệu, và ịch sử kiểm tra đối với các mặt hàng giống hệt sẵn có.

Thứ năm là, áp dụng đầy đủ,và thực chất nguyên tắc quản lý rủi ro trong KTCL, kiểm tra ATTP đối với các hàng hóa nhập khẩu để có thể đảm bảo vai trò quản lý nhà nước và nâng cao tính tuân thủ của các doanh nghiệp

Nguyên tắc quản lý rủi ro trong KTCL, và kiểm tra ATTP đối với hàng hóa nhập khẩu theo Mô hình mới sẽ được thể hiện thông qua các nội dung: Hệ thống tự động quyết định xem phương thức kiểm tra, chuyển đổi phương thức kiểm tra, và các trường hợp miễn kiểm tra; Cơ quan hải quan sẽ thực hiện kiểm tra ngẫu nhiên không quá 5% để có thể đưa ra đánh giá tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa thuộc diện KTCL, và kiểm tra ATTP.

Cụ thể, Đề án mới đề xuất áp dụng đầy đủ, và thực chất nguyên tắc quản lý rủi ro trong KTCL, kiểm tra ATTP đối với các hàng hóa nhập khẩu, bao gồm:

(i) Đánh giá rủi ro trong khâu nhập khẩu, theo đó, sẽ đánh giá theo tiêu chí lựa chọn đối với nhà xuất khẩu, và nhà sản xuất ở nước ngoài. Thông qua hoạt động này, cơ quan KTCN sẽ có những nguồn thông tin tạo cơ sở dữ liệu lâu dài, và đầy đủ để có thể nhận diện được hàng hóa theo các mức độ rủi ro khác nhau từ khi được nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam từ đó sẽ có biện pháp quản lý phù hợp, và ngăn ngừa từ xa các rủi ro;

(ii) Đánh giá sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa thuộc diện KTCL, và kiểm tra ATTP. Thông qua các hoạt động này, cơ quan KTCN sẽ căn cứ theo lịch sử KTCL, và ATTP đối với các hàng hóa nhập khẩu để có thể nhận diện được nhà nhập khẩu nào đã tuân thủ tốt pháp luật, nhà nhập khẩu nào thường xuyên thực hiện vi phạm pháp luật, có rủi ro cao trong quá trình nhập khẩu hàng thuộc diện KTCN để từ đó tiến hành tạo thuận lợi hoặc tăng cường việc kiểm tra đối với các nhà nhập khẩu theo các mức độ rủi ro phân chia khác nhau;

(iii) Xây dựng Danh mục các loại hàng hóa rủi ro của từng lĩnh vực quản lý chuyên ngành: thông qua các hoạt động phân tích, và đánh giá để nhận diện mặt hàng nào có xuất xứ từ đâu, những mặt hàng nào thường xuyên bị vi phạm có độ rủi ro cao, mặt hàng nào có độ rủi ro trung bình, và rủi ro thấp để có thể tập trung nguồn lực kiểm tra, hoặc tiến hành miễn kiểm tra những mặt hàng rủi ro…

Theo Đề án, nguyên tắc quản lý rủi ro sẽ được thực hiện sâu rộng và thực chất thể hiện thông qua việc các cơ quan quản lý áp dụng hệ thống các biện pháp, và quy trình nghiệp vụ nhằm xác định, đánh giá và tiến hành phân loại mức độ rủi ro, làm cơ sở bố trí, và sắp xếp nguồn lực hợp lý để kiểm tra, giám sát và hỗ trợ các nghiệp vụ khác thực hiện có hiệu quả. Theo đó, cơ quan hải quan sẽ phải tập trung nguồn lực để kiểm tra, và kiểm soát đối với các loại hàng hóa của doanh nghiệp không tuân thủ pháp luật, hoặc gian lận thương mại, những lô hàng có độ rủi ro cao có khả năng vi phạm. Đối với các tổ chức, và cá nhân chấp hành tốt pháp luật trong hoạt động xuất nhập khẩu, những lô hàng không có độ rủi ro sẽ được áp dụng phương thức kiểm tra đơn giản, và từ đó giảm được thời gian thông quan, hoặc giảm chi phí làm thủ tục nhập khẩu.

Nhằm nâng cao tính tuân thủ quy định của doanh nghiệp, đảm bảo tốt vai trò kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước, Đề án mới đề xuất áp dụng các nguyên tắc quản lý rủi ro trong KTCL, và kiểm tra ATTP đối với các loại hàng hóa nhập khẩu thông qua việc tiến hành thực hiện kiểm tra ngẫu nhiên không quá 5% các loại hàng hóa thuộc diện KTCL, kiểm tra ATTP, cụ thể như sau: Cơ quan hải quan sẽ thực hiện KTCL, và kiểm tra ATTP trong những trường hợp có dấu hiệu vi phạm hoặc kiểm tra ngẫu nhiên (không quá 5%) để tiến hành đánh giá tuân thủ pháp luật của người khai hải quan.

Việc thực hiện kiểm tra như trên có vai trò quan trọng trong việc nâng cao tính tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp do đó cơ quan hải quan có thể thực hiện kiểm tra bất kỳ lúc nào mặc dù đó là hàng hóa nhập khẩu thuộc trường hợp miễn kiểm tra, hoặc hàng hóa nhập khẩu đã được chuyển đổi sang việc áp dụng các phương thức kiểm tra thông thường hay kiểm tra giảm.

Thứ sáu là, mở rộng các đối tượng được miễn kiểm tra chất lượng, và kiểm tra ATTP, với dự kiến bổ sung thêm 18 nhóm đối tượng để cắt giảm chi phí quản lý nhà nước và các chi phí của doanh nghiệp

Việc mở rộng nhóm đối tượng miễn theo Mô hình mới được đề xuất trên nguyên tắc những đối tượng được miễn giảm ở Nghị định này (Nghị định số 15/2018/NĐ-CP, Nghị định số 132/2015/NĐ-CP,Nghị định số 74/2018/NĐ-CP, và Nghị định số 85/2019/NĐ-CP) sẽ được tiến hành xem xét miễn ở Nghị định kia và ngược lại, đồng thời sẽ bổ sung thêm một vài trường hợp và nhân rộng áp dụng chung cho tất cả các lĩnh vực KTCL sẽ làm tăng đối tượng và các lô hàng không phải KTCL.

18 trường hợp được miễn việc kiểm tra chất lượng, hoặc miễn kiểm tra an toàn thực phẩm:(1) Tài sản di chuyển của tổ chức cá [A1] nhân trong định mức được miễn thuế; quà biếu, hoặc quà tặng trong định mức miễn thuế nhập khẩu theo các quy định của pháp luật về thuế;(2) Hàng hóa nhập khẩu trong định lượng được miễn thuế theo đúng quy định của pháp luật phục vụ cho công tác và sinh hoạt của cá nhân/tổ chức nước ngoài được hưởng các quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao;(3) Hàng hóa quá cảnh, hoặc chuyển khẩu, trung chuyển, tạm nhập, tái xuất, từ nước ngoài được gửi vào kho ngoại quan để tiến hành xuất ra nước ngoài;(4) Hàng hóa là những mẫu hàng để quảng cáo không có giá trị sử dụng, hoặc hàng mẫu thử nghiệm hoặc nghiên cứu có số lượng phù hợp với các mục đích thử nghiệm hoặc nghiên cứu có xác nhận của tổ chức, hoặc cá nhân;(5) Hàng hóa tạm nhập để làm trưng bày hội chợ, hoặc triển lãm;(6) Hàng hóa tạm nhập khẩu để bán tại các cửa hàng miễn thuế;(7) Hàng hóa trao đổi của các cư dân biên giới trong định mức miễn thuế;(8) Hàng hóa nhập khẩu được gửi qua dịch vụ bưu chính, hoặc chuyển phát nhanh có trị giá hải quan được miễn thuế theo các quy định của pháp luật về thuế;(9) Hàng hóa nhập khẩu tại chỗ;(10) Hàng tạm nhập khẩu để sửa chữa, hoặc tái chế;(11) Hàng nhập khẩu chuyên dùng cho các mục đích an ninh, và quốc phòng;(12) Hàng hóa đã được cấp Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm (đối với các hàng hóa thuộc diện phải kiểm tra về an toàn thực phẩm);(13) Hàng hóa là sản phẩm, nguyên liệu, hoặc linh kiện nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng hóa xuất khẩu; (14) Hàng hóa là sản phẩm, hoặc nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu để phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất của người nhập khẩu; (15) Hàng hóa nhập khẩu là hàng đơn lẻ để bảo hành, hoặc thay thế; hàng hóa là bộ phận của dây chuyền thiết bị đồng bộ; (16) Hàng hóa nhập khẩu từ các nhà sản xuất đã được các cơ quan có trách nhiệm của Việt Nam kiểm tra tại nguồn, do các Bộ, hoặc ngành công bố theo từng thời kỳ; (17) Hàng hóa được sản xuất theo cá công nghệ tiên tiến và có xuất xứ từ những nước, hoặc vùng lãnh thổ có tiêu chuẩn chất lượng cao được thể hiện qua các nhãn chất lượng (ví dụ: hàng hóa được gắn nhãn CE, KC, hoặc FDA…) do các Bộ, ngành công bố theo từng thời kỳ; (18) Hàng hóa được nhập khẩu để phục vụ yêu cầu khẩn cấp theo chỉ đạo của Chính phủ, hoặc Thủ tướng Chính phủ.

Thứ bảy là, ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin trong các Mô hình mới để cắt giảm thời gian, hỗ trợ doanh nghiệp và các cơ quan hữu quan liên quan.

Ứng dụng tối đa công nghệ thông tin nhằm đảm bảo cho Cổng thông tin một cửa quốc gia, các hệ thống thông quan tự động và hệ thống quản lý rủi ro thực hiện các tính năng như: Xác định đối tượng phải kiểm tra, miễn, hoặc giảm kiểm tra; quyết định các phương thức kiểm tra; cung cấp các chỉ dẫn cho doanh nghiệp để có thể thực hiện các công đoạn trong KTCN kết hợp với việc kiểm tra hải quan; hỗ trợ doanh nghiệp hỗ trợ doanh nghiệp công bố các tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn mà hàng hóa của họ đáp ứng; kết nối và chia sẻ về hồ sơ, dữ liệu cho các bên liên quan; chia sẻ các thông tin hiện có cũng như sẽ được chia sẻ thêm các thông tin thông quan từ phía cơ quan hải quan để có thể phục vụ công tác quản lý nhà nước của các Bộ quản lý ngành.

Đánh giá tác động của Đề án đối với nền kinh tế và các bên liên quan trực tiếp

Việc đổi mới phương thức kiểm tra theo Đề án mới được kỳ vọng sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm đầu mối tiếp xúc giữa các doanh nghiệp với các cơ quan, tổ chức, và đồng thời cũng không phải tham gia vào quá trình kiểm tra chất lượng, và kiểm tra an toàn thực phẩm đối với các loại hàng hóa nhập khẩu.

Mô hình mới sẽ giúp cho Chính phủ tiết kiệm được ngân sách thông qua việc cắt giảm các thủ tục hành chính, cắt giảm nguồn lực, và giảm chi phí cho một bộ máy kiểm tra chất lượng, kiểm tra về an toàn thực phẩm cồng kềnh, và giảm thời gian thông quan hàng hóa; Giúp nâng cao ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc tuân thủ pháp luật về chất lượng, và về an toàn thực phẩm của hàng hóa.

Dự án sẽ Tạo Thuận lợi Thương mại do USAID tài trợ đã đánh giá tác động của Đề án mới đối với nền kinh tế, với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các bên liên quan.

Đối với nền kinh tế, khi Mô hình mới được triển khai thực hiện sẽ giúp cắt giảm số lô hàng cần phải kiểm tra, từ đó sẽ làm giảm thiểu các chi phí thương mại do giảm yêu cầu về các loại hàng tồn kho và vốn cho phép việc kinh doanh sản xuất hiệu quả hơn. Đồng thời, sẽ khuyến khích việc tăng trưởng, đặc biệt là tác động đối với các nhà sản xuất và nhà phân phối, thúc đẩy việc xuất khẩu và tăng sản lượng cuối cùng, mang lại nhiều cơ hội hiệu quả hơn cho nền kinh tế quốc gia.

Đối với các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được thời gian làm thủ tục KTCL, và kiểm tra ATTP, vì:(i) chủ yếu các giao dịch là với một đầu mối, (ii) thủ tục kiểm tra sẽ được lồng ghép trong các thủ tục hải quan, (iii) áp dụng điện tử hóa để tối đa vào quy trình kiểm tra; Tạo thuận lợi trong việc giải quyết thắc mắc khi có vấn đề, do thống nhất về cơ quan chịu trách nhiệm cuối cùng trước khi thông quan hàng hóa; Tiết kiệm các chi phí khi lô hàng được miễn, hoặc giảm kiểm tra (đối tượng được miễn kiểm tra sẽ được mở rộng hơn); Môi trường kinh doanh cạnh tranh sẽ bình đẳng hơn, do hàng hóa nhập khẩu sẽ được kiểm soát chặt chẽ hơn, thực hiện minh bạch và khách quan hơn.

Đối với Chính phủ: Việc thống nhất về đầu mối kiểm tra với việc thực hiện các thủ tục hải quan là xu hướng của quốc tế, góp phần giúp việc hội nhập tốt hơn và tăng uy tín của Chính phủ, giúp cải thiện chỉ số cải cách hành chính, và góp phần nâng hạng thứ hạng vị trí của Việt Nam trên các bảng xếp hạng uy tín thế giới về đánh giá năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh. Chính phủ sẽ tiết kiệm được ngân sách thông qua việc cắt giảm các thủ tục hành chính, cắt giảm các nguồn lực, giảm các loại chi phí cho một bộ máy KTCL, và kiểm tra ATTP cồng kềnh, giảm thời gian tiến hành thông quan hàng hóa.

Đối với các Bộ quản lý ngành, và lĩnh vực: Vẫn thực hiện vai trò quản lý về chất lượng, và an toàn thực phẩm như hiện nay, chỉ cần chuyển chức năng kiểm tra tại cửa khẩu sang cho cơ quan hải quan. Theo đó, sẽ đòi hỏi việc tăng cường kết nối, chia sẻ thông tin với các cơ quan hải quan, hỗ trợ đào tạo chuyên môn tốt hơn cho cán bộ hải quan, tổ chức lại các nguồn lực để có thể thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra chất lượng của hàng hóa nhập khẩu trong quá trình sản xuất và lưu thông trên thị trường hàng hóa trong nước. Các Bộ, ban ngành phải tăng cường công tác hậu kiểm.

Đối với cơ quan hải quan: Giúp tăng cường vai trò của cơ quan hải quan trong việc kiểm tra chất lượng, và kiểm tra an toàn thực phẩm cụ thể là các đầu mối kiểm tra.

Đối với Tổ chức đánh giá sự phù hợp: Vai trò của tổ chức đánh giá sự phù hợp về cơ bản sẽ không thay đổi nhiều so với hiện tại. Tuy nhiên, theo mô hình mới đòi hỏi việc ứng dụng các công nghệ thông tin đồng bộ giữa các cơ quan, và tổ chức liên quan đến việc KTCL, kiểm tra ATTP như việc trả kết quả trên các Cổng thông tin một cửa quốc gia…

Đối với người tiêu dùng: Về mặt dài hạn, giá cả hàng hóa nhập khẩu có thể được giảm do các khoản chi phí doanh nghiệp bỏ ra cho việc KTCL, và kiểm tra ATTP bị giảm xuống, thời gian thông quan được cải thiện sẽ tạo điều kiện phân phối hàng hóa nhanh, và làm tăng cơ hội kinh doanh hơn.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *